Bản án số: 04/2014/KDTM-ST Ngày: 12/9/2014 V/v: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MT TỈNH ST Bản án số: 04/2014/KDTM-ST Ngày: 12/9/2014. |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
V/v: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MT, TỈNH ST
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: 1. Ông Nguyễn Hoàng L
Các Hội thẩm nhân dân: 2. Ông Lê Hoàng N
3. Ông Trần Văn L
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Nguyễn Kim Y - Cán bộ Tòa án nhân dân huyện MT, tỉnh ST.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện MT, tỉnh ST tham gia phiên tòa: Bà Triệu Thị Mộng L - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 11 và 12 tháng 9 năm 2014, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện MT, tỉnh ST, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 07/2012/TLST-KDTM ngày 03 tháng 12 năm 2012, về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2014/QĐST-KDTM ngày 28 tháng 7 năm 2014, giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc (NĐ_Công ty TNHH Một thành viên Ngân hàng Vạn Phúc).
Địa chỉ: số 36 đường NCT, xã MĐ, huyện TL, thành phố HN (nay là số 18 đường THD, xã MĐ, huyện TL, thành phố HN).
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Đình Hải; Chức vụ: Giám đốc
Phòng giao dịch KH thuộc NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc - Chi nhánh tỉnh ST; địa chỉ số 165
Quốc lộ 1, khóm 1, phường X, thành phố ST, tỉnh ST, là người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn (Văn bản ủy quyền ngày 04/01/2013). (có mặt)
Bị đơn:
Ông BĐ_Lê Văn Chinh - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Phong Hoa. Địa chỉ: số 158 ấp Xẻo Gừa, xã MH, huyện MT, tỉnh ST. (vắng mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông LQ_Nguyễn Ngọc Đại
Địa chỉ: số 180 ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST. (có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông LQ_Nguyễn Ngọc Đại: Ông TPT, Luật sư của Văn phòng Luật sư TD, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh ST. (có mặt)
2. Bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Địa chỉ: ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST. (vắng mặt)
3. Bà LQ_Nguyễn Thị Bình
Địa chỉ: số 180 ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST. (có mặt)
4. Ông LQ_Phan Văn Sang
Địa chỉ: số 180 ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST. (có mặt)
5. Ông LQ_Nguyễn Văn Thiện (chết ngày 07/7/2009)
Địa chỉ: ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST.
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông LQ_Nguyễn Văn Thiện:
- Bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Địa chỉ: ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST. (vắng mặt)
- Ông LQ_Nguyễn Ngọc Đại
Địa chỉ: số 180 ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST. (có mặt)
- Ông Nguyễn Ngọc Minh (Ngọc Mỹ)
Địa chỉ: số 33A đường LVT, khóm 7, phường T, thành phố ST, tỉnh ST. (vắng mặt)
- Bà Trần Thị Lộc
Địa chỉ: số 180 ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST. (vắng mặt)
- Bà LQ_Nguyễn Thị Bình
Địa chỉ: số 180 ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST. (có mặt)
- Ông Nguyễn Ngọc Tán (Táng)
Địa chỉ: ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST. (vắng mặt)
- Ông Nguyễn Ngọc Khoa
Địa chỉ: ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST. (vắng mặt)
- Ông Nguyễn Ngọc Tính
Địa chỉ: ấp Tá Biên, xã PM, huyện MT, tỉnh ST. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp của bà Trần Thị Lộc, bà LQ_Nguyễn Thị Bình, ông Nguyễn Ngọc Tán (Táng), ông Nguyễn Ngọc Khoa và ông Nguyễn Ngọc Tính: Ông Trần Ngọc Đức; địa chỉ số 180 ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST; là người đại diện theo ủy quyền của bà Lộc, bà LQ_Bình, ông Tán, ông Khoa và ông Tính (Văn bản ủy quyền ngày 17/12/2012, ngày 17/3/2013, ngày 15/5/2013 và ngày 17/7/2013). (có mặt)
6. Ông LQ_Nguyễn Hữu Trần (chết ngày 04/9/2012) Địa chỉ: ấp Mỹ Lợi B, xã MT, huyện MT, tỉnh ST.
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông LQ_Nguyễn Hữu Trần:
- Bà Mai Thị Út
Địa chỉ: số 258 ấp Mỹ Lợi B, xã MT, huyện MT, tỉnh ST, (vắng mặt)
- Ông Nguyễn Quốc Dũng
Địa chỉ: số 258 ấp Mỹ Lợi B, xã MT, huyện MT, tỉnh ST. (vắng mặt)
- Ông Nguyễn Quốc Tiến
Địa chỉ: số 258 ấp Mỹ Lợi B, xã MT, huyện MT, tỉnh ST. (vắng mặt)
- Bà Nguyễn Thị Chúc Lệ
Địa chỉ: số 258 ấp Mỹ Lợi B, xã MT, huyện MT, tỉnh ST. (vắng mặt)
- Bà Nguyễn Thị Thanh Xuân
Địa chỉ: số 258 ấp Mỹ Lợi B, xã MT, huyện MT, tỉnh ST. (vắng mặt)
- Ông Nguyễn Quốc Văn
Địa chỉ: khóm 2, phường Z, thị xã VC, tỉnh ST. (vắng mặt)
- Bà Nguyễn Thị Thu Trang
Địa chỉ: ấp Trà Coi B, xã MH, huyện MT, tỉnh ST. (vắng mặt)
- Ông Nguyễn Quốc Thanh
Địa chỉ: số 166 đường LTK, khóm 1, phường X, thành phố ST, tỉnh ST. (vắng mặt)
- Bà Nguyễn Thị Thanh Mai
Địa chỉ: ấp Tân Lập, xã VH, thị xã VC, tỉnh ST. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp của những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông LQ_Nguyễn Hữu Trần: Ông Phan Văn Phương; trú tại số 175, đường LTT, ấp Nội Ô, thị trấn HHN, huyện MT, tỉnh ST; là người đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông LQ_Nguyễn Hữu Trần (Văn bản ủy quyền ngày 17/12/2012, ngàY 19/12/2012 và ngày 20/12/2012). (có mặt)
NHẬN THẤY:
Trong đơn khởi kiện ngày 18 tháng 02 năm 2008 và ngày 28 tháng 11 năm 2012, nguyên đơn là NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc và trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông Nguyễn Đình Hải trình bày:
Vào ngày 18/5/2005, ông BĐ_Lê Văn Chinh - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Phong Hoa có vay vốn của NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc - tại Phòng giao dịch KH thuộc Chi nhánh ST số tiền là 670.000.000 đồng, mục đích vay kinh doanh phân bón, thuốc trừ sâu các loại; thỏa thuận lãi suất 1,1%/tháng, lãi suất nợ quá hạn 1,65%/tháng; thời hạn cho vay 12 tháng, hạn trả ngày 18/05/2006 và có gia hạn thêm đến ngày 18/5/2007.
Để bảo đảm số nợ vay trên, ông BĐ_Chinh có thế chấp 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau đây:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00282 do Ủy ban nhân dân huyện MT cấp ngày 10/3/1995, diện tích 37m2, tại thửa số 736, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại ấp Xẻo Gừa, xã MH, huyện MT, tỉnh ST, do bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (vợ ông BĐ_Chinh) đứng tên.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00211 do Ủy ban nhân dân huyện MT cấp ngày 23/7/1996, diện tích 13.175m2, tại thửa số 957, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST, do ông BĐ_Chinh đứng tên.
Ngoài ra, số nợ trên cũng được bảo lãnh bằng 04 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông LQ_Nguyễn Hữu Trần, ông LQ_Nguyễn Văn Thiện và ông LQ_Nguyễn Ngọc Đại, cụ thể:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00079 và số 00209 do Ủy ban nhân dân huyện MT cấp ngày 19/4/1996, diện tích 60.275m2, tại các thửa đất số 404, 384, 385, 394, 398, 393, tờ bản đồ số 2 và số 3, tọa lạc tại ấp Mỹ Lợi B, xã MT, huyện MT, tỉnh ST, do ông LQ_Trần đứng tên.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00213 do Ủy ban nhân dân huyện MT cấp ngày 23/7/1996, diện tích 33.847m2, tại các thửa đất số 961, 948, 943, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST, do ông LQ_Thiện đứng tên.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00291 do Ủy ban nhân dân huyện MT cấp ngày 08/3/2000, diện tích 6.507 m2, tại thửa số 947, tờ bản đồ số 5, tọa lạc tại ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST, do ông LQ_Đại đứng tên.
Sau khi vay, ông BĐ_Chinh đóng lãi cho NĐ_Ngân hàng được 112.024.002 đồng, còn người bảo lãnh cho ông BĐ_Chinh là ông LQ_Nguyễn Hữu Trần và người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông LQ_Trần là bà Mai Thị Út đã đứng ra trả nợ gốc cho NĐ_Ngân hàng thay cho ông BĐ_Chinh được 60.000.000 đồng.
Đến thời điểm phiên tòa sơ thẩm hôm nay, ông BĐ_Chinh còn thiếu nợ NĐ_Ngân hàng cụ thể như sau:
- Vốn gốc: 610.000.000 đồng;
- Lãi trong hạn (từ ngày 19/8/2006 đến ngày 10/9/2014): 993.269.750 đồng;
- Lãi quá hạn (từ ngày 19/5/2007 đến ngày 11/9/2014): 312.699.778 đồng.
Tổng cộng vốn lãi: 1.915.969.528 đồng.
Nay NĐ_Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Buộc ông BĐ_Lê Văn Chinh - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Phong Hoa trả cho NĐ_Ngân hàng số tiền vốn gốc 610.000.000 đồng và số tiền lãi tạm tính đến ngày 11/9/2014 là 1.305.969.528 đồng, tổng cộng: 1.915.969.528 đồng và lãi phát sinh đến khi thu hết nợ.
- Nếu ông BĐ_Chinh mất khả năng thanh toán thì đề nghị xử lý các tài sản thế chấp và bảo lãnh nêu trên theo qui định của pháp luật để thu hồi nợ.
Trong bản tự khai ngày 18 tháng 3 năm 2008 và các biên bản hòa giải vào các ngày 27 tháng 3 năm 2008, ngày 18 tháng 4 năm 2008, ngày 19 tháng 01 năm 2009, bị đơn ông BĐ_Lê Văn Chinh - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Phong Hoa trình bày: Ông thừa nhận có vay của NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc tại Phòng giao dịch KH thuộc Chi nhánh tỉnh ST số tiền là 670.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng số 0045/HĐTD ngày 18/5/2005. Khi vay ông có thế chấp 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông và vợ ông đứng tên. Ngoài ra, khi ông vay thì ông LQ_Nguyễn Văn Thiện, ông LQ_Nguyễn Ngọc Đại vả ông LQ_Nguyễn Hữu Trần còn đứng ra ký hợp đồng bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất của các ông để bảo lãnh số nợ vay nêu trên cho ông như phía nguyên đơn trình bày. Sau khi vay, ông chia lại cho ông LQ_Trần 60.000.000 đồng, ông LQ_Thiện là 140.000.000 đồng, ông LQ_Trần đóng lãi cho ông được hai lần với số tiền 11.500.000 đồng, còn ông LQ_Thiện chưa có đóng lãi lần nào. Ông yêu cầu vợ ông là bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh phải cùng ông liên đới trả nợ cho NĐ_Ngân hàng.
Trong bản tự khai và biên bản hòa giải ngày 18 thảng 4 năm 2008, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh trình bày:
Bà là vợ ông BĐ_Chinh. Khi ông BĐ_Chinh đưa các loại giấy tờ liên quan đến việc vay tiền tại Phòng giao dịch KH thuộc NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc - Chi nhánh tại tỉnh ST thì bà có ký tên. Số tiền Ông BĐ_Chinh vay là 670.000.000 đồng. Sau khi vay đem tiền về thì ông LQ_Trần có nhận 60.000.000 đồng, còn ông LQ_Thiện (cha bà) không có nhận 140.000.000 đồng như ông BĐ_Chinh trình bày. Việc ông LQ_Thiện và ông LQ_Đại ủy quyền cho ông BĐ_Chinh vay tiền ở Phòng giao dịch KH là không có.
Trong bản tự khai ngày 18 tháng 4 năm 2008, ngày 22 tháng 02 năm 2013, bản tường trình ngày 15 tháng 12 năm 2012 và biên bản hòa giải vào các ngày 18 tháng 4 năm 2008, ngày 19 tháng 01 năm 2009, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và cũng là người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông LQ_Nguyễn Văn Thiện và đồng thời là người đại diện hợp pháp của bà Trần Thị Lộc, bà LQ_Nguyễn Thị Bình, ông Nguyễn Ngọc Tán, ông Nguyễn Ngọc Khoa, ông Nguyễn Ngọc Tính là ông LQ_Nguyễn Ngọc Đại trình bày:
Ông và ông LQ_Thiện không có bảo lãnh cho ông BĐ_Chinh vay tiền tại NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc tại Phòng giao dịch KH thuộc Chi nhánh tỉnh ST. Chữ ký trong hợp đồng bảo lãnh mà NĐ_Ngân hàng cung cấp không phải là của ông và ông LQ_Thiện mà là do ông BĐ_Chinh giả mạo. Đồng thời ông LQ_Thiện cũng không có nhận số tiền 140.000.000 đồng như ông BĐ_Chinh trình bày. Ông không đồng ý cho NĐ_Ngân hàng xử lý tài sản của ông và ông LQ_Thiện, đồng thời yêu cầu được nhận lại các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông và ông LQ_Thiện mà NĐ_Ngân hàng đang giữ.
Trong bản tự khai ngày 25 tháng 02 năm 2013 và tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông LQ_Nguyễn Hữu Trần (gồm có bà Mai Thị Út, ông Nguyễn Quốc Dũng, ông Nguyễn Quốc Tiến, bà Nguyễn Thị Chúc Lệ, bà Nguyễn Thị Thanh Xuân, ông Nguyễn Quốc Văn, bà Nguyễn Thị Thu Trang, ông Nguyễn Quốc Thanh, bà Nguyễn Thị Thanh Mai) là ông Phan Văn Phương trình bày:
Năm 2005, ông LQ_Nguyễn Hữu Trần có nhờ ông BĐ_Lê Văn Chinh - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Phong Hoa vay dùm 60.000.000 đồng, ông LQ_Trần có đưa cho ông BĐ_Chinh 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông LQ_Trần và ủy quyền cho ông BĐ_Chinh làm thủ tục thế chấp NĐ_Ngân hàng để vay tiền. Đến nay ông LQ_Trần và người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông LQ_Trần là bà Mai Thị Út đã đứng ra trả cho NĐ_Ngân hàng số tiền vốn gốc là 60.000.000 đồng. Ông đại diện cho những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông LQ_Trần yêu cầu Tòa án xem xét cho họ được trả đủ số vốn gốc 60.000.000 đồng và tiền lãi trên số vốn gốc này, đồng thời khi trả xong nợ thì NĐ_Ngân hàng phải giao trả lại hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông LQ_Trần.
Trong đơn yêu cầu độc lập ngày 08 tháng 10 năm 2013 và tại phiên tòa sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà LQ_Nguyễn Thị Bình trình bày:
Vào năm 1999, ông BĐ_Chinh, bà LQ_Hạnh có vay của bà 10 lượng vàng 24K và 90.000.000 đồng. Đến năm 1999, ông BĐ_Chinh, bà LQ_Hạnh không có khả năng thanh toán nên mới giao phần đất diện tích 13.175m2, tại thửa số 957, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST, do ông BĐ_Chinh đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Ủy ban nhân dân huyện MT cấp ngày 23/7/1996 cho bà làm. Đến năm 2003, ông BĐ_Chinh, bà LQ_Hạnh có làm giấy cầm cố đất cho bà và có xác nhận của Ban nhân dân ấp Bét Tôn, xã PM. Phần đất này hiện nay bà đang quản lý, sử dụng nhưng ông BĐ_Chinh đã đem thế chấp NĐ_Ngân hàng để vay tiền và NĐ_Ngân hàng có yêu cầu xử lý để thu hồi nợ. Bà có yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng cầm cố đất giữa bà với ông BĐ_Chinh, bà LQ_Hạnh và yêu cầu buộc ông BĐ_Chinh, bà LQ_Hạnh trả lại cho bà 10 lượng vàng 24K và 90.000.000 đồng thì bà trả lại đất của ông BĐ_Chinh để cho NĐ_Ngân hàng xử lý. Nay bà xin rút lại toàn bộ yêu cầu độc lập này để bà khởi kiện ông BĐ_Chinh - bà LQ_Hạnh thành một vụ án khác.
Trong biên bản lấy lời khai ngày 04 tháng 9 năm 2013 và tại phiên tòa sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông LQ_Phan Văn Sang trình bày:
Ông là chồng của bà LQ_Bình. Phần đất diện tích 13.175m2, tại thửa số 957, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST mà ông BĐ_Chinh thế chấp cho NĐ_Ngân hàng thì hiện nay vợ chồng ông đang trực tiếp quản lý, canh tác. Ông thống nhất với ý kiến của bà LQ_Bình.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông LQ_Nguyễn Ngọc Đại là Luật sư TPT cho rằng ông LQ_Đại không có bảo lãnh cho ông BĐ_Chinh vay tiền ở NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc tại Phòng giao dịch KH thuộc Chi nhánh tỉnh ST, chữ ký trong hợp đồng bảo lãnh không phải của ông LQ_Đại và phía NĐ_Ngân hàng cũng đã thừa nhận nên đề nghị tuyên bố hợp đồng bảo lãnh giữa ông LQ_Đại với NĐ_Ngân hàng vô hiệu, buộc NĐ_Ngân hàng giao trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông LQ_Đại.
Bị đơn ông BĐ_Lê Văn Chinh, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh và người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông LQ_Nguyễn Văn Thiện là ông Nguyễn Ngọc Minh (Ngọc Mỹ), bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh vắng mặt.
XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chúng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng:
Ông BĐ_Lê Văn Chinh là bị đơn, bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông LQ_Nguyễn Văn Thiện và ông Nguyễn Ngọc Minh (Ngọc Mỹ) là người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông LQ_Nguyễn Văn Thiện đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị và các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có mặt tại phiên tòa yêu cầu xét xử vắng mặt ông BĐ_Chinh, bà LQ_Hạnh và ông Minh. Căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 199 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011), Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện Kiểm sát, yêu cầu của các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tiến hành xét xử vắng mặt ông BĐ_Chinh, bà LQ_Hạnh và ông Minh.
Về nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện của NĐ_Ngân hàng về việc yêu cầu ông BĐ_Chinh trả tiền vay, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Vào ngày 18/5/2005, ông BĐ_Lê Văn Chinh - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Phong Hoa có ký Hợp đồng tín dụng số 0045/HĐTD với NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc tại Phòng giao dịch KH thuộc Chi nhánh ST để vay số tiền 670.000.000 đồng, mục đích vay là kinh doanh phân bón, thuốc trừ sâu các loại và tại bản tự khai ngày 18/3/2008, biên bản hòa giải vào các ngày 27/3/2008, ngày 18/4/2008, ngày 19/01/2009, ông BĐ_Chinh đã thừa nhận. Căn cứ Khoản 2 Điều 80 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011), Hội đồng xét xử công nhận đây là sự thật.
Từ khi vay cho đến nay, ông BĐ_Chinh đã đóng lãi cho NĐ_Ngân hàng được 112.024.002 đồng, còn tiền vốn ông BĐ_Chinh không có trả, tuy nhiên người bảo lãnh cho ông BĐ_Chinh là ông LQ_Nguyễn Hữu Trần và người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông LQ_Trần là bà Mai Thị Út đã đứng ra trả vốn cho NĐ_Ngân hàng được 60.000.000 đồng. Theo người đại diện hợp pháp của NĐ_Ngân hàng thì đến thời điểm phiên tòa sơ thẩm này, ông BĐ_Chinh còn thiếu NĐ_Ngân hàng số tiền như sau:
1. Vốn gốc: 610.000.000 đồng.
2. Lãi trong hạn (từ ngày 19/8/2006 đến ngày 10/9/2014): 993.269.750 đồng;
3. Lãi quá hạn (từ ngày 19/5/2007 đến ngày 11/9/2014): 312.699.778 đồng; Tổng cộng vốn lãi: 1.915.969.528 đồng.
Khoản 1 Điều 474 Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định: “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn ”. Đồng thời, trong Hợp đồng tín dụng nêu trên thì hai bên cũng đã thỏa thuận bên vay là ông BĐ_Chinh phải có nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông BĐ_Chinh không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết, cụ thể là đến hạn trả nợ ông BĐ_Chinh không trả đầy đủ, đúng hạn. Vì vậy, NĐ_Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Chinh trả tiền vốn và lãi nêu trên là có căn cứ chấp nhận.
Đồng thời, bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (vợ ông BĐ_Chinh) cũng thừa nhận việc ông BĐ_Chinh vay tiền của NĐ_Ngân hàng về để kinh doanh là bà biết và có ký tên vào hồ sơ vay tiền. Vì vậy, bà LQ_Hạnh cũng phải có nghĩa vụ liên đới với ông BĐ_Chinh để trả nợ cho NĐ_Ngân hàng và kể từ ngày 12/9/2014, ông BĐ_Chinh, bà LQ_Hạnh còn phải tiếp tục chịu lãi suất trên số tiền vốn vay, theo mức lãi suất nợ quá hạn mà hai bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số 0045/LIĐTD ngày 18/5/2005.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông BĐ_Chinh cho rằng sau khi vay tiền về, ông có đưa lại cho ông LQ_Thiện 140.000.000 đồng, ông LQ_Trần 60.000.000 đồng, tuy nhiên chỉ có ông LQ_Trần thừa nhận, còn ông LQ_Thiện thì không thừa nhận, Hội đồng xét xử thấy đây là giao dịch dân sự riêng giữa ông BĐ_Chinh với ông LQ_Thiện, ông LQ_Trần, chứ không phải giữa NĐ_Ngân hàng với ông LQ_Thiện, ông LQ_Trần nên không xem xét trong vụ án này, nếu sau này giữa ông BĐ_Chinh với ông LQ_Thiện, ông LQ_Trần có tranh chấp và có yêu cầu thì sẽ được xem xét, giải quyết bằng một vụ án khác.
Xét yêu cầu khởi kiện của NĐ_Ngân hàng về việc yêu cầu xử lý tài sản thế chấp và bảo lãnh, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Để bảo đảm nợ vay NĐ_Ngân hàng, ông BĐ_Chinh có thế chấp hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00282, diện tích 37m2 tại thửa số 736, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại ấp Xẻo Gừa, xã MH, huyện MT, do bà LQ_Hạnh (vợ ông BĐ_Chinh) đứng tên quyền sử dụng và số 00211, diện tích 13.175m2, tại thửa số 957, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, do ông BĐ_Chinh đứng tên. Các Hợp đồng thế chấp này là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành xác minh và xem xét, thẩm định tại chỗ thì xác định được phần đất tại thửa 736 hiện nay ông BĐ_Chinh vẫn quản lý, còn phần đất tại thửa 957 thì vợ chồng bà LQ_Bình, ông LQ_Sang đang quản lý, sử dụng. Tòa án đã đưa bà LQ_Bình, ông LQ_Sang tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đến ngày 08/10/2013, bà LQ_Bình có đơn yêu cầu độc lập và cho rằng phần đất tại thửa 957 vợ chồng ông BĐ_Chinh đã cầm cố cho bà nên yêu cầu hủy hợp đồng cầm cố, đồng thời yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Chinh trả nợ cho bà thì bà giao đất cho NĐ_Ngân hàng phát mãi. Xét thấy, giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông BĐ_Chinh với bà LQ_Bình là trái pháp luật nên vô hiệu. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm, bà LQ_Bình đã rút lại toàn bộ đơn yêu cầu độc lập, việc rút yêu cầu của bà là tự nguyện nên căn cứ Khoản 2 Điều 218 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011), Hội đồng xét xử chấp nhận, đình chỉ xét xử đối với yêu cầu độc lập của bà LQ_Bình; nếu sau này bà LQ_Bình có khởi kiện yêu cầu xem xét giao dịch nêu trên giữa bà với vợ chồng ông BĐ_Chinh thì sẽ được thụ lý, giải quyết bằng một vụ án khác.
Theo quy định tại Điều 721 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì: “Khi đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp quyền sử dụng đất mà bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì quyền sử dụng đất đã thế chấp được xử lý theo thoả thuận; nếu không có thỏa thuận hoặc không xử lý được theo thoả thuận thì bên nhận thế chấp có quyền khởi kiện tại Tòa án.” Như vậy, căn cứ quy định này thì NĐ_Ngân hàng yêu cầu xử lý quyền sử dụng đất thế chấp nêu trên của ông BĐ_Chinh, bà LQ_Hạnh nếu ông BĐ_Chinh, bà LQ_Hạnh không trả nợ là có căn cứ chấp nhận và khi có yêu cầu thì ông BĐ_Chinh, bà LQ_Hạnh, bà LQ_Bình và ông LQ_Sang phải có trách nhiệm giao lại tài sản thế chấp mà mình đang quản lý để Cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Ngoài ra, theo NĐ_Ngân hàng để bảo đảm số nợ vay của ông BĐ_Chinh thì ông LQ_Thiện, ông LQ_Đại và ông LQ_Trần còn đứng ra lập hợp đồng bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất của các ông, cụ thể:
- Theo Hợp đồng bảo lãnh số 0045/TC ngày 18/5/2005 thì ông LQ_Thiện bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất số 00213, với tổng diện tích 33.847m2, tại các thửa đất số 961, 948, 943, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT.
- Theo Hợp đồng bảo lãnh số 0045/TC ngày 18/5/2005 thì ông LQ_Đại bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất số 00291, với diện tích 6.507 m2, tại thửa số 947, tờ bản đồ số 5, tọa lạc tại ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT.
- Theo Hợp đồng bảo lãnh số 0045/TC ngày 18/5/2005 thì ông LQ_Trần bảo lãnh bằng hai quyền sử dụng đất số 00079 và số 00209 với tổng diện tích 60.275m2, tại các thửa đất số 404, 384, 385, 394, 398, 393, tờ bản đồ số 2 và 3, tọa lạc tại ấp Mỹ Lợi B, xã MT, huyện MT.
Tuy nhiên, ông LQ_Thiện, ông LQ_Đại không thừa nhận việc bảo lãnh và có yêu cầu giám định chữ ký trong hợp đồng thế chấp. Theo Kết luận giám định số 316/C54B ngày 28/3/2011 của Phân Viện Khoa học hình sự tại thành phố HCM thì chữ ký trong hợp đồng bảo lãnh mà NĐ_Ngân hàng cung cấp không phải của ông LQ_Đại và Kết luận giám định số 06/KL-GĐKTHS ngày 17/02/2012 của Phòng Giám định kỹ thuật hình sự - Bộ Quốc phòng thì chữ ký trong hợp đồng bảo lãnh mà NĐ_Ngân hàng cung cấp không phải của ông LQ_Thiện. Như vậy, hợp đồng bảo lãnh giữa ông LQ_Thiện, ông LQ_Đại với NĐ_Ngân hàng bị vô hiệu và không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập, NĐ_Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00291 cho ông LQ_Đại, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00213 cho những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông LQ_Thiện.
Đối với hợp đồng bảo lãnh của ông LQ_Trần, tại bản tự khai ngày 25/02/2013 và tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông LQ_Trần là ông Phương cho rằng ông LQ_Trần chỉ ủy quyền cho ông BĐ_Chinh đem hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thế chấp NĐ_Ngân hàng để vay 60.000.000 đồng chứ không có bảo lãnh là không có căn cứ. Bởi lẽ, như đã phân tích ở trên, việc ông LQ_Trần vay 60.000.000 đồng là sự thỏa thuận riêng giữa ông LQ_Trần với ông BĐ_Chinh, chứ không phải giữa ông LQ_Trần với NĐ_Ngân hàng và lời trình bày của ông Phương cũng mâu thuẫn với lời trình bày của ông LQ_Trần lúc còn sống, cụ thể tại bản tự khai và biên bản hòa giải ngày 18/4/2008, ông LQ_Trần đều thừa nhận có bảo lãnh cho ông BĐ_Chinh vay tiền bằng hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, Hội đồng xét xử xác định việc ông LQ_Trần bảo lãnh cho ông BĐ_Chinh vay tiền bằng hai quyền sử dụng đất do ông đứng tên là có thật. Từ đó, những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông LQ_Trần yêu cầu được trả cho NĐ_Ngân hàng tiền vốn vay 60.000.000 đồng, tiền lãi trên số tiền này và nhận lại hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông LQ_Trần là không có cơ sở chấp nhận.
Theo Điều 361 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định thì: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nêu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.” Đồng thời theo hợp đồng bảo lãnh mà hai bên ký kết thì NĐ_Ngân hàng có quyền phát mãi tài sản bảo lãnh nếu người vay không trả được nợ. Như vậy, nếu ông BĐ_Chinh không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho NĐ_Ngân hàng đầy đủ thì NĐ_Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý quyền sử dụng đất mà ông LQ_Trần đem đi bảo lãnh cho ông BĐ_Chinh. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã xác minh làm rõ các phần đất mà ông LQ_Trần đem đi bảo lãnh hiện nay những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông LQ_Trần đang tạm quản lý, sử dụng. Vì vậy, những người này phải giao lại cho Cơ quan có thẩm quyền xử lý các phần đất này theo quy định của pháp luật khi có yêu cầu.
Về án phí:
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc được chấp nhận nên bị đơn ông BĐ_Lê Văn Chinh - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Phong Hoa và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh phải chịu toàn bộ án phí sơ thẩm theo quy định Khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án, cụ thể: 36.000.000 đồng + [3% x (1.915.969.528 đồng - 800.000.000 đồng)] = 69.479.085 đồng.
Nguyên đơn NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc không phải chịu án phí sơ thẩm và được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 12.380.000 đồng, theo Biên lai thu số 001148 ngày 27/02/2008 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện MT, tỉnh ST.
Do tại phiên tòa sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà LQ_Nguyễn Thị Bình rút lại đơn yêu cầu độc lập, Hội đồng xét xử đã đình chỉ xét xử đối với yêu cầu độc lập của bà LQ_Bình nên căn cứ Khoản 3 Điều 193 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011), bà LQ_Bình được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 11.012.500 đồng, theo Biên lai thu số 000103 ngày 31/10/2013 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện MT, tỉnh ST.
Về chi phí giám định, định giá:
Đối với chi phí giám định, theo quy định tại Khoản 1 Điều 137, Khoản 2 Điều 138 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011) thì ông BĐ_Chinh phải chịu chi phí giám định tổng cộng là 3.822.000 đồng, ông LQ_Đại đã nộp tạm ứng chi phí giám định là 3.822.000 đồng, vì vậy ông BĐ_Chinh phải có nghĩa vụ hoàn trả lại chi phí giám định cho ông LQ_Đại.
Đối với chi phí định giá, theo quy định tại Khoản 1 Điều 142 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011) thì bà LQ_Bình phải chịu chi phí định giá là
1.200.000 đồng, bà LQ_Bình đã nộp tạm ứng chi phí định giá 1.200.000 đồng và như vậy bà LQ_Bình đã nộp đủ chi phí định giá.
Vì các lẽ trên;
Áp dụng:
QUYẾT ĐỊNH:
Điểm m Khoản 1 Điều 29; Điểm b Khoản 1 Điều 33; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Khoản 2 Điều 80; Khoản 1 Điều 137; Khoản 2 Điều 138; Khoản 1 Điều 142; Khoản 3 Điều
193; Điểm b Khoản 2 Điều 199; Khoản 2 Điều 218 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011);
Điều 361; Khoản 1 Điều 474; Điều 721 Bộ luật Dân sự năm 2005; Khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc
(NĐ_Công ty TNHH Một thành viên Ngân hàng Vạn Phúc).
Buộc bị đơn ông BĐ_Lê Văn Chinh - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Phong Hoa và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh liên đới trả cho nguyên đơn NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc (do Phòng giao dịch KH thuộc Chi nhánh tỉnh ST đại diện nhận) số tiền:
- Vốn gốc: 610.000.000 đồng;
- Lãi trong hạn (từ ngày 19/8/2006 đến ngày 10/9/2014): 993.269.750 đồng;
- Lãi quá hạn (từ ngày 19/5/2007 đến ngày 11/9/2014): 312.699.778 đồng;
Tổng cộng: 1.915.969.528 đồng (Một tỷ chín trăm mười lăm triệu chín trăm sáu mươi chín ngàn năm trăm hai mươi tám đồng).
Đồng thời, kể từ ngày 12/9/2014, ông BĐ_Lê Văn Chinh và bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh còn phải tiếp tục chịu lãi suất trên số tiền vốn vay, theo mức lãi suất nợ quá hạn mà hai bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số 0045/HĐTD ngày 18/5/2005 cho đến khi trả dứt nợ.
2. Trong trường hợp ông BĐ_Lê Văn Chinh và bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh không có khả năng trả nợ thì NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất tại thửa số 736, diện tích 37m2, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại ấp Xẻo Gừa, xã MH, huyện MT, tỉnh ST, do bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Ủy ban nhân dân huyện MT, tỉnh ST cấp ngày 10/3/1995 và quyền sử dụng đất tại thửa số 957, diện tích 13.175m2, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại ấp Bét Tôn, xã PM, huyện MT, tỉnh ST, do ông BĐ_Lê Văn Chinh đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Ủy ban nhân dân huyện MT, tỉnh ST cấp ngày 23/7/1996.
Khi có yêu cầu thì ông BĐ_Lê Văn Chinh, bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, bà LQ_Nguyễn Thị Bình và ông LQ_Phan Văn Sang có trách nhiệm giao lại các quyền sử dụng đất này cho Cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
3. Trường hợp sau khi xử lý tài sản thế chấp của ông BĐ_Lê Văn Chinh và bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh không đủ để trả nợ cho NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc thì NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc có quyền yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản mà ông LQ_Nguyễn Hữu Trần đem bảo lãnh là quyền sử dụng đất tại các thửa số 384, 385, 393, 394, 398 và 404, với tổng diện tích 60.275m2, tờ bản dồ số 2 và số 3, tọa lạc tại ấp Mỹ Lợi B, xã MT, huyện MT do ông LQ_Nguyễn Hữu Trần đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Ủy ban nhân dân huyện MT, tỉnh ST cấp ngày 19/4/1996. Khi có yêu cầu thì những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông LQ_Nguyễn Hữu Trần có trách nhiệm giao lại các quyền sử dụng đất này cho Cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
4. Tuyên bố Hợp đồng bảo lãnh số 0045/TC ngày 18/5/2005 giữa NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc (Phòng giao dịch KH - Chi nhánh tỉnh ST) với ông LQ_Nguyễn Văn Thiện là vô hiệu. Phòng giao dịch KH - Chi nhánh tỉnh ST phải có trách nhiệm giao trả lại cho những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông LQ_Nguyễn Văn Thiện là bà Trần Thị Lộc, bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, bà LQ_Nguyễn Thị Bình, ông Nguyễn Ngọc Tán (Táng), ông LQ_Nguyễn Ngọc Đại, ông Nguyễn Ngọc Minh (Ngọc Mỹ), ông Nguyễn Ngọc Khoa và Nguyễn Ngọc Tính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00213 do Ủy ban nhân dân huyện MT, tỉnh ST cấp ngày 23/7/1996 cho ông LQ_Nguyễn Văn Thiện.
5. Tuyên bố Hợp đồng bảo lãnh số 0045/TC ngày 18/5/2005 giữa NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc (Phòng giao dịch KH - Chi nhánh tỉnh ST) với ông LQ_Nguyễn Ngọc Đại là vô hiệu. Phòng giao dịch KH - Chi nhánh tỉnh ST phải có trách nhiệm giao trả lại cho ông LQ_Nguyễn Ngọc Đại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00291 do Ủy ban nhân dân huyện MT, tỉnh ST cấp ngày 08/3/2000 cho ông LQ_Nguyễn Ngọc Đại.
6. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà LQ_Nguyễn Thị Bình, về việc yêu cầu hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa bà với ông BĐ_Lê Văn Chinh, bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh và yêu cầu ông BĐ_Chinh, bà LQ_Hạnh trả lại 10 lượng vàng 24K cùng 90.000.000 đồng (Chín mươi triệu đồng) thì bà trả lại đất để cho NĐ_Ngân hàng xử lý.
7. Về án phí:
Bị đơn ông BĐ_Lê Văn Chinh - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Phong Hoa và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà LQ_Nguyễn Thị Mỹ Hạnh phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 69.479.085 đồng (Sáu mươi chín triệu bốn trăm bảy mươi chín ngàn không trăm tám mươi lăm đồng).
Nguyên đơn NĐ_Ngân hàng Vạn Phúc không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 12.380.000 đồng (Mười hai triệu ba trăm tám mươi ngàn đồng), theo Biên lai thu số 001148 ngày 27/02/2008 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện MT, tỉnh ST.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà LQ_Nguyễn Thị Bình được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 11.012.500 đồng (Mười một triệu không trăm mười hai ngàn năm trăm đồng), theo Biên lai thu số 000103 ngày 31/10/2013 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện MT, tỉnh ST.
8. Về chi phí giám định, định giá:
Ông BĐ_Lê Văn Chinh phải chịu chi phí giám định là 3.822.000 đồng (Ba triệu tám trăm hai mươi hai ngàn đồng); ông LQ_Nguyễn Ngọc Đại đã nộp tạm ứng chi phí giám định là 3.822.000 đồng (Ba triệu tám trăm hai mươi hai ngàn đồng) và như vậy, ông BĐ_Lê Văn Chinh có nghĩa vụ hoàn trả lại chi phí giám định cho ông LQ_Nguyễn Ngọc Đại là 3.822.000 đồng (Ba triệu tám trăm hai mươi hai ngàn đồng).
Bà LQ_Nguyễn Thị Bình phải chịu chi phí định giá là 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm ngàn đồng), bà LQ_Nguyễn Thị Bình đã nộp tạm ứng chi phí định giá trước 1.200.000 đồng và như vậy bà LQ_Nguyễn Thị Bình đã nộp đủ chi phí định giá.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo nêu trên được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh ST xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
NOTE:
Các thông tin về tên và địa chỉ của một số cá nhân, tổ chức được đề cập và/hoặc xuất hiện trong bản án này đã được thay đổi. Tài liệu này chỉ được sử dụng vào mục đích học tập và nghiên cứu, nghiêm cấm sử dụng vào mục đích nào khác nhằm xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Chúng tôi không chịu trách nhiệm đối với bất kỳ khiếu nại, thiệt hại, rủi ro, tổn thất hay nghĩa vụ phát sinh trực tiếp, gián tiếp hoặc phái sinh do việc sử dụng nội dung bản án này cho bất kỳ mục đích nào.