Bản số: 141/2011/KDTM-PT Ngày 31/08/2011 V/v: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TÒA PHÚC THẨM THÀNH PHỐ HCM ----------------------------------- Bản số: 141/2011/KDTM-PT Ngày 31/08/2011 V/v: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----------------------------------- |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA PHÚC THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI THÀNH PHỐ HCM
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: 1. Ông Huỳnh Lập T
Các Thẩm phán: 2. Ông Nguyễn Hoàng T
3. Bà Trương Thị minh T
Thư ký Tòa án ghì biên bản phiên tòa: Ông Mai Thanh T, cán bộ Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM.
Ngày 31 tháng 8 năm 2011 tại Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 107/2011/TLPT - KDTM ngày 04 tháng 7 năm 2011 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
Do bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 450/2011/KDTM-ST ngày 07/4/2011 của Toà án nhân dân thành phố HCM có kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 248/QĐ-KDTM ngày 04/8/2011 giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai
Địa chỉ: số 28-30-32 NTN, phường BN, quận X, thành phố HCM. Đại diện theo ủy quyền: Bà Phạm Thị Quang Hợp (có mặt)
Luật sư bảo vệ: Luật sư PNT- Đoàn Luật sư thành phố HCM (có mặt).
Bị đơn:
Ông BĐ_Nguyễn Thế Quân
Địa chỉ: 1236 đường TS, phường 14, quận PN, thành phố HCM. Đại diện theo ủy quyền : Ông Nguyên Bá Huy (có mặt).
NHẬN THẤY:
Trong đơn khởi kiện ngày 15 tháng 09 năm 2010, nguyên đơn là NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai có bà Phạm Thị Quang Hợp đại diện trình bày thì giữa nguyên đơn và bị đơn có ký hợp đồng tín dụng về kinh doanh thương mại, cụ thể nguyên đơn có cho bị đơn vay vàng thể hiện qua hợp đồng tín dụng số 005/12/08TC-20 ngày 05/12/2008, vay số vàng 300 lượng vàng SJC tương đương với số tiền 4.998.000.000 đồng, tỷ giá vàng
16.660.000 đồng/lượng của ngày 06/12/2008, lãi suất vay là 1,375% tháng, lãi suất quá hạn bằng 1,50% lãi suất cho vay, thời hạn vay là 12 tháng từ ngày 06/12/2008 đến ngày 06/12/2009 là đáo hạn trả nợ.
Theo hợp đồng hai bên ký kết thời hạn trả nợ đến ngày 06/12/2009, nhưng ông BĐ_Nguyễn Thế Quân chỉ trả nợ vốn số tiền quy ra vàng là 20 lượng vàng SJC và trả lãi 28 lượng 8 chỉ 1 phân 4 ly vàng SJC và lãi phạt là 4 chỉ 1 phân 96 ly vàng SJC cho NĐ_Ngân hàng, dư nợ gốc tính đến ngày 07/04/2011 số vàng là 280 lượng vàng SJC, tiền lãi trong hạn là 147,771 chỉ vàng SJC, tiền lãi quá hạn là 762,608 chỉ vàng SJC, lãi phạt là 44,769. chỉ vàng SJC. Tổng cộng cả vốn và lãi là 3.755,148 chỉ vàng SJC, nay NĐ_Ngân hàng yêu cầu ông BĐ_Quân trả số vàng này cho NĐ_Ngân hàng.
Tài sản dùng để bảo đảm thế chấp vay tiền là căn nhà và đất số 541/131A đường HVB, phường 14, quận PN, thành phố HCM do ông BĐ_Nguyễn Thế Quân là chủ sở hữu là người thế chấp tài sản theo hợp đồng thế chấp tài sản số 005/12/08TC-20 ngày 05/12/2008.
Hợp đồng đáo hạn đã lâu ông BĐ_Quân không trả vốn và lãi cho NĐ_Ngân hàng, nay NĐ_Ngân hàng yêu cầu lấy lại vốn và tiền lãi về cho NĐ_Ngân hàng theo hợp đồng hai bên đã ký, nếu ông BĐ_Nguyễn Thế Quân không có khả năng trả nợ thì phải bán tài sản thế chấp để trả nợ NĐ_Ngân hàng.
Ông BĐ_Nguyễn Thế Quân thừa nhận có ký hợp đồng tín dụng vay tiền NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai là vay tiền chứ không vay vàng ông có nhận số tiền là 4.898.000.000 đồng, lãi suất 1,375% tháng vay trong 12 tháng, hàng tháng ông trả tiền lãi cũng là bằng tiền Việt Nam chứ không phải bằng vàng, nay ông đồng ý trả vốn và lãi là tiền không đồng ý trả vàng như NĐ_Ngân hàng đòi nợ.
Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 450/2011/KDTM-ST ngày 07/4/2011 của Toà án nhân dân thành phố HCM đã quyết định:
Áp dụng khoản 4 Điều 29, Điều 210 Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2005;
Áp dụng Điều 342, 343, 344, 361, 362, 369, 474,476 Bộ luật dân sự năm 2006; Áp dụng Điều 306 Luật thương mại;
Áp dụng Điều 52 Luật Tổ chức tín dụng;
Áp dụng : Điều 2, 6,7,9, 30 Luật thi hành án;
Áp dụng : Điều 27, Mục 3 phần I án phí - Doanh mục mức án lệ phí Tòa án.
Buộc ông BĐ_Nguyễn Thế Quân phải trả 4.898.000.000 đồng tiền vốn và 1.286.114.475 đồng tiền lãi phát sinh từ hợp đồng tín dụng số 005/12/08TC-20 ngày 05/12/2008 cho NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai. Tổng cộng cả vốn và lãi là 6.184.114.475 đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
Bác một phần yêu cầu của NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai đòi ông BĐ_Quân số vàng tương đương 280 lượng vàng SJC.
Ngay khi án có hiệu lực pháp luật nếu không có điều kiện thi hành án trả số tiền vốn và lãi cho ngân hàng, thì NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai có quyền yêu cầu Cục thi hành án thành phố HCM phát mãi tài sản thế chấp là căn nhà và đất số 541/131A đường HVB, phường 14, quận PN, thành phố HCM do ông BĐ_Nguyễn Thế Quân là chủ sở hữu người thế chấp tài sản theo hợp đồng thế chấp tài sản số 005/12/08TC-20 ngày 05/12/2008 để thu hồi nợ cho NĐ_Ngân hàng.
Đối với số tiền lãi từ ngày 08/04/2011 trở đi ông BĐ_Quân tiếp tục trả cho NĐ_Ngân hàng tính theo lãi suất quá hạn hợp đồng hai bên thỏa thuận ký kết trên số nợ gốc cho đến khi trả hết nợ.
Kể từ ngày có đơn xin thi hành án của nguyên đơn nếu bị đơn chưa thi hành xong số tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất quá hạn trong hợp đồng do hai bên thỏa thuận tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 21/4/2011 NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai có đơn kháng cáo đề nghị xét xử lại toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu buộc bị đơn phải trả vốn, lãi bằng vàng.
XÉT THẤY:
Xét, ông BĐ_Nguyễn Thế Quân nhận tiền vay hay nhận vàng hiện vật lúc NĐ_Ngân hàng giải ngân. Theo đơn đề nghị vay vốn Ngân hàng (BL 73) ngày 30/10/2008, ông BĐ_Quân đề nghị NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai cho ông vay tiền chứ không phải vay vàng, vay số tiền là 5.000.000.000 đồng, nhưng tại Điều 1 của hợp đồng ghi bên A đồng ý cho bên B vay số vàng là 300 lượng vàng SJC tương ứng với số tiền là 4.998.000.000 đồng, theo tỷ giá 16.660.000 đồng/lượng lãi suất cho vay là 1.375% tháng, vay trong hạn 12 tháng theo hợp đồng tín dụng số 005/12/08TC-20 ngày 05/12/2008 (BL 111).
Nhưng lúc NĐ_Ngân hàng giải ngân cho ông BĐ_Quân không giao vàng mà lại giao bằng tiền chỉ giao cho ông BĐ_Quân có 4.898.000.000 đồng (theo giá vàng sáng ngày 06/12/2008).
Nếu NĐ_Ngân hàng cho ông BĐ_Quân vay vàng thì phải giao hiện vật vàng vật chất cho ông BĐ_Quân chứ không thể giao tiền đồng Việt Nam cho ông BĐ_Quân được, và ông BĐ_Quân cũng không có bản cam kết nào với NĐ_Ngân hàng là nhận tiền thay cho nhận vàng, việc ông BĐ_Quân nhận tiền cũng phù hợp với đơn đề nghị của ông là vay tiền không phải vay vàng. Như vậy xác định ông BĐ_Quân vay tiền nhận tiền chứ không phải vay vàng nhận vàng như NĐ_Ngân hàng khởi kiện và kháng cáo.
Xét tiền lãi suất NĐ_Ngân hàng cũng quy định trong hợp đồng lãi suất vàng là 1.375%/tháng tức 16,5%/năm lãi suất này là lãi suất cho vay tiền hay lãi suất cho vay vàng? Theo quyết định 723/QĐ/HĐQT.2008 ngày 7/10/2008 và quyết định số 861/QĐ/HĐQT/2008 ngày 06/11/2008 về điều chỉnh lãi suất huy động vàng của Hội đồng quản trị NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai thì lãi suất huy động cho vay là tối đa 6,5%/năm cuối kỳ mới được lấy lãi.
Theo quyết định số 885/QĐ/HĐQT.2008 ngày 26/11/2008 (BL 149) của Hội đồng quản trị NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai thì lãi suất cho vay vàng ngắn hạn là 6,5%/năm. Tương ứng với Ngân hàng Á Châu, Ngân hàng Đổng Á cùng thời điểm nay lãi suất cho vay vàng là 6,6%/năm.
Như vậy, lãi suất trong hợp đồng 1.375%/tháng không phải là lãi suất cho vay vàng mà NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai quy định nếu lãi suất 1.375%/tháng thì lãi suất năm sẽ là 16,5%/năm, lãi suất này là lãi suất cho vay tiền không phải là lãi suất cho vay vàng. Lãi suất 1.375% tháng là lãi suất cho vay tiền phù hợp với việc Ngân hàng giao tiền cho ông BĐ_Quân vay tiền chứ không phải giao vàng, nếu Ngân hàng cho ông BĐ_Quân vay vàng lãi suất vàng 1 tháng tại thời điểm đó như NĐ_Ngân hàng Thanh Mai quy định chỉ có 0.541%/tháng không thể có lãi suất vàng là 1.375%/tháng (16,5%/năm).
Theo đơn đề nghị vay tiền của ông BĐ_Quân là vay 5.000.000.000 đồng không phải vay bằng 300 lượng vàng SJC, lãi suất trong hợp đồng cũng là lãi suất cho vay tiền không phải lãi suất cho vay vàng, lúc nhận hiện vật là nhận tiền giây 4.898.000.000 đồng chứ không nhận bằng 300 lượng vàng SJC, lúc trả tiền lãi cũng trả bằng tiền mặt quy ra tương đương với giá vàng tại thời điểm trả chứ không trả bằng vàng (BL 71, 70, 68, 67, 65, 64...) như vậy xác định được ông BĐ_Quân là người vay Ngân hàng là tiền mặt chứ không phải là vay vàng vật chất,
Tóm lại, ông BĐ_Quân đã nhận bằng tiền mặt 4.898.000.000 đồng vay ở NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai không phải là 300 lượng vàng SJC như Ngân hàng yêu cầu đòi nợ và lãi suất 1.375%/tháng là lãi suất vay tiền đồng không phải là lãi suất vay vàng, do đó, cần buộc ông BĐ_Quân phải trả số tiền vốn và lãi còn thiếu cho NĐ_Ngân hàng Thanh Mai trên số tiền còn thiếu như án sơ thẩm kết luận là chính xác.
Xét, về tiền lãi do Ngân hàng tính tiền lãi theo lãi suất cho vay bằng vàng 1.375%/tháng là không đúng với lãi suất cho vay vàng, cấp sơ thẩm đã tính lại là lãi suất cho vay tiền theo lãi suất 1.375%/tháng.
Cụ thể: Tiền lãi trong hạn 12 tháng trên số tiền 4.898.000.000 đồng, từ ngày 06/12/2008 đến 06/12/2009 là:
4.898.000.000 đồng X 1.375% X 12 tháng = 808.170.000 đồng.
Từ ngày 06/12/2009 đến ngày 07/04/2011 là 16 tháng 1 ngày tiền lãi tính theo lãi quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, tính theo lãi suất là 2.0625% tháng.
4.898.000.000 đồng X 2.0625% X 16 tháng 1 ngày = 1.619.707.375 đồng.
Tổng cộng lãi suất là: 808.170.000 đồng + 1.619.707.375 đồng = 2.427.877.375 đồng, số tiền lãi đã trả là 1.141.762.800 đồng.
2.427.877.375 đồng - 1.141.762.800 đồng = 1.286.141.475 đồng.
Tổng cộng cả vốn và lãi là:
4.898.000.000 đồng + 1.286.141.475 đồng = 6.184.114.475 đồng.
Cấp sơ thẩm buộc ông BĐ_Nguyễn Thế Quân phải trả số tiền này cho NĐ_Ngân hàng khi án có hiệu lực pháp luật, nếu ông BĐ_Nguyễn Thế Quân không có khả năng trả nợ cho NĐ_Ngân hàng, thì NĐ_Ngân hàng có quyền đề nghị Cục thi hành án dân sự thành phố HCM phát mãi tài sản thế chấp là cấn nhà và đất số 541/131A đường HVB, phường 14, quận PN thành phố HCM do ông BĐ_Nguyễn Thế Quân là chủ sở hữu là người thế chấp tài sản theo hợp đồng thế chấp tài sản số 005/12/08TC-20 ngày 05/12/2008 nợ cho NĐ_Ngân hàng,là đúng pháp luật.
Xét yêu cầu của NĐ_Ngân hàng đòi số vàng 280 lượng cùng tiền lãi tiền phạt tổng cộng 3.755,148 chỉ vàng SJC là không có căn cứ không phù hợp các chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của đương sự tại phiên tòa về việc xác nhận hiện bị đơn còn nợ số nợ tiền vốn và lãi là 3.755,148 chỉ vàng SJC là vi phạm pháp luật, trái với quyết định của Tổng giám đốc NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai, của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ở tại thời điểm đó.
Đối với số tiền lãi từ ngày 08/04/2011 trở đi ông BĐ_Quân tiếp tục trả cho NĐ_Ngân hàng trên số vốn gốc theo lãi suất nợ quá hạn cho đốn khi trả hốt số nợ gốc 4.898.000.000 đồng.
Bác kháng cáo của nguyên đơn vì không có căn cứ. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự,
Áp dụng Điều 342, 343, 344, 361, 362, 369, 474, 476 Bộ luật dân sự năm 2006; Áp dụng Điều 306 Luật thương mại;
Áp dụng Điều 52 Luật Tổ chức tín dụng, xử:
Buộc ông BĐ_Nguyễn Thế Quân phải trả 4.898.000.000 đồng tiền vốn và 1.286.114.457 đồng tiền lãi phát sinh từ hợp hợp đồng tín dụng số 005/12/08TC- 20 ngày 05/12/2008. cho NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai. Tổng cộng cả vốn và lãi là 6.184.114.475 đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
Bác một phần yêu cầu của NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai đòi ông BĐ_Quân số vàng tương đương 280 lượng vàng SJC.
Ngay khi án có hiệu lực pháp luật nếu không có điều kiện thi hành án trả số tiền vốn và lãi cho NĐ_Ngân hàng, thì NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai có quyền yêu cầu Cục thi hành án thành phố HCM phát mãi tài sản thế chấp là căn nhà và đất số 541/131A đường HVB, phường 14, quận PN, thành phố HCM do ông BĐ_Nguyễn Thế Quân là chủ sở hữu người thế chấp tài sản theo hợp đồng thế chấp tài sản số 005/12/08TC-20 ngày 05/12/2008 để thu hồi nợ cho Ngân hàng.
Đối với số tiền lãi từ ngày 08/04/2011 trở đi ông BĐ_Quân tiếp tục trả cho NĐ_Ngân hàng tính theo lãi suất quá hạn hợp đồng hai bên thỏa thuận ký kết trên số nợ gốc cho đến khi trả hết nợ.
Kể từ ngày có đơn xin thi hành án của nguyên đơn nếu bị đơn chưa thi hành xong số tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất quá hạn trong hợp đồng do hai bên thỏa thuận tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.
Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: 114.184.114 đồng ông BĐ_Quân phải chịu được trừ vào số tiền 2.000.000 đồng, ông BĐ_Quân đã nộp theo biên lai số 018228 ngày 9/11/2010 của Cục thi hành án dân sự thành phố HCM, ông BĐ_Quân còn phải nộp 112.184.114 đồng nộp tại Cục thi hành án dân sự thành phố HCM.
NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Thanh Mai phải chịu 115.667.361 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm nộp án phí là 59.133.000 đồng cho NĐ_Ngân hàng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 018073 ngày 25/01/2010 của cục thi hành án dân sự thành phố HCM. NĐ_Ngân hàng còn phải nộp thêm số tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 56.534361 đồng và phải chịu 200.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm được trừ vào tiền tạm ứng án phí 200.000 đồng đã nộp tại Cục thi hành án dân sự thành phố HCM theo biên lai số 08452 ngày 21/4/2011.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án này là chung thẩm.
NOTE:
Các thông tin về tên và địa chỉ của một số cá nhân, tổ chức được đề cập và/hoặc xuất hiện trong bản án này đã được thay đổi. Tài liệu này chỉ được sử dụng vào mục đích học tập và nghiên cứu, nghiêm cấm sử dụng vào mục đích nào khác nhằm xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Chúng tôi không chịu trách nhiệm đối với bất kỳ khiếu nại, thiệt hại, rủi ro, tổn thất hay nghĩa vụ phát sinh trực tiếp, gián tiếp hoặc phái sinh do việc sử dụng nội dung bản án này cho bất kỳ mục đích nào.