Bài viết

Bản án số: 139/2011/KDTM-PT Ngày 30/08/2011 V/v: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

 

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TÒA PHÚC THẨM

TẠI THÀNH PHỐ HCM

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

-------------------------

---------------------------

Bản án số: 139/2011/KDTM-PT Ngày 30/08/2011

V/v: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA PHÚC THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI THÀNH PHỐ HCM

Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:         1. Ông Huỳnh Công L

Các Thẩm phán:                                 2. Ông Phạm Hùng V

3. Ông Phạm Công H

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Trần Hữu B, Cán bộ Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại TP. HCM.

Trong ngày 30 tháng 8 năm 2011, tại trụ sở Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 96/2011/KDTM-PT ngày 23 tháng 6 năm 2011 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

Do bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 19/2011/KDTM-ST ngày 08/4/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh ST bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 254/2011/QĐPT ngày 04/8/2011 giữa các đương sự:

     Nguyên đơn: NĐ_Ngân hàng Thương mại cổ phần Hải Âu.

     Địa chỉ: 130 PĐL, quận PN, thành phố HCM. 

     Địa chỉ phòng giao dịch tại ST: 257 quốc lộ 1A, phường 7, thành phố ST.

 Đại diện theo ủy quyền: Ông Trịnh Minh Phong - Giám đốc Phòng giao dịch ST (vắng - có đơn xin xét xử vắng mặt).

     Bị đơn:

  1. Ông BĐ_Nguyễn Văn Hữu, sinh năm 1968 (có mặt).
  2. BĐ_Lâm Thị Tố  Nhàn, sinh năm 1970 (có mặt). Cùng địa chỉ: ấp Hà Bô, xã TV, huyện TĐ (MX cũ), tỉnh ST.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện ngày 06/5/2010 và tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện nguyên đơn trình bày:

Ngày 28/11/2007, ông BĐ Nguyễn Văn Hữu và bà BĐ Lâm Thị Tố Nhàn có vay của NĐ Ngân hàng Thương mại cổ phần Hải Âu - Chi nhánh BL, Phòng giao dịch ST số tiền vốn 60.000.000 đồng, vay trung hạn, đáo nợ vào ngày 28/11/2010, lãi suất trong hạn là 1,3%/tháng, lãi nợ quá hạn là 150% lãi trong hạn để bổ sung vốn kinh doanh nhà trọ và tạp hóa. Khoản vay này ông BĐ Hữu, bà BĐ Nhàn có thế chấp tài sản là Quyền sử dụng đất 273m2 tại thửa 830, tờ bản đồ số 03 tọa lạc tại ấp Hà Bô, xã TV, huyện TĐ (MX cũ), tỉnh ST do ủy ban nhân dân huyện MX cấp cho bà BĐ Lâm Thị Tố Nhàn. Sau khi vay, ông     BĐ Hữu, bà BĐ Nhàn thanh toán được vốn 1.000.000 đồng và trả lãi đến ngày 10/7/2008 thì  ngưng.  NĐ Ngân  hàng  đã  nhiều  lần  đôn đốc,  nhắc nhở  nhưng  ông  BĐ Hữu,  bà BĐ Nhàn chỉ hẹn lần không trả.

Ngân hàng yêu cầu các bị đơn hoàn trả vốn 59.000.000 đồng, lãi trong hạn là 22.902.933 đồng, lãi quá hạn tính đến ngày 08/4/2011 là 4.821.600 đồng. T ng cộng vốn và lãi là 86.724.533 đồng. Nếu bị đơn không thanh toán thì yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Bị đơn, ông BĐ Nguyễn Văn Hữu thừa nhận về nợ gốc và thời gian ngưng đóng lãi  như phía NĐ Ngân hàng đã trình bày. Ông xin trả nợ mỗi tháng 1.000.000 đồng đến khi dứt nợ vì hiện nay ông đang làm ăn thua lỗ.

Tại bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 19/2010/KDTM-ST ngày 08/4/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh ST đã quyết định:

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 29; điểm a khoản 1 Điều 34, khoản 2 điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng các điều 471,715, 721 và Điều 355 Bộ Luật dân sự. Áp dụng Pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của NĐ Ngân hàng Thương mại cổ phần Hải Âu khởi kiện yêu cầu ông BĐ Nguyễn Văn Hữu, bà BĐ Lâm Thị Tố Nhàn hoàn trả vốn và lãi.

2/ Buộc ông BĐ Nguyễn Văn Hữu, bà BĐ Lâm Thị Tố Nhàn có trách nhiệm liên đới hoàn lại cho NĐ Ngân hàng Thương mại cổ phần Hải Âu do Phòng giao dịch ST đại diện nhận, tiền vốn: vốn 59.000.000 đồng, lãi trong hạn là 22.902.933 đồng, lãi quá hạn tính đến ngày 08/4/2011 là 4.821.600 đồng. Tổng cộng vốn và lãi là 86.724.533 đồng.

- Thời hạn thanh toán như sau:

Từ ngày 09/4/2011 đến ngày 31/12/2011: Trả vốn: 40.000.000 đồng.

Ngày 31/12/2012 trả dứt điểm vốn và lãi là 46.724.533 đồng và số lãi phát sinh trên  nợ gốc còn lại.

Kể từ ngày 09/4/2011, ông BĐ Hữu, bà BĐ Nhàn còn phải chịu lãi trên nợ gốc theo lãi nợ quá hạn theo lãi suất trong hợp đồng đến khi thi hành án xong.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày  12/5/2011,  bà  BĐ Lâm  Thị  Tố  Nhàn  có  đơn  kháng  cáo  yêu  cầu  được trả 15.000.000 đồng/ tháng trong vòng 12 tháng.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Bị đơn vẫn giữ nguyên kháng cáo; các bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Trên cơ sở xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời tranh luận tại phiên tòa, thấy rằng: ào ngày 28/11/2007 ông BĐ Nguyễn  Văn Hữu và bà BĐ Lâm Thị Tố Nhàn ký  Hợp đồng vay của  NĐ Ngân hàng Thương mại cổ phần Hải Âu - Phòng giao dịch ST số   tiền 60.000.000 đồng, mục đích kinh doanh, thời hạn vay 3 năm, lãi 1,3%/tháng, quá hạn bằng 150% của lãi suất trong hạn.

Bảo đảm việc vay nợ, ông BĐ Hữu, bà BĐ Nhàn ký hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sử dụng 273m2  đất do bà BĐ Nhàn đứng tên Giấy chứng nhận.

Sau khi vay tiền, ông BĐ Hữu, bà BĐ Nhàn chỉ thực hiện trả lãi được một ph n, sau đó thì ngưng không trả nữa, nên NĐ Ngân hàng khởi kiện. Xét ông BĐ Hữu, bà BĐ Nhàn vay tiền kinh doanh nhưng vi phạm nghĩa vụ trả lãi, nên Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu   cầu của NĐ Ngân hàng, buộc ông BĐ Hữu, bà BĐ Nhàn phải trả vốn vay, và tiền lãi còn nợ đến ngày xử sơ thẩm tổng cộng 86.724.533 đồng và xử lý tài sản thế chấp là có căn cứ, đúng pháp luật.

Bà BĐ Nhàn kháng cáo trình bày vì hoàn cảnh kinh doanh gặp khó khăn, yêu c u được trả d n số nợ, nhưng không được NĐ Ngân hàng chấp thuận. Yêu cầu kháng cáo của  bà BĐ Nhàn là không có căn cứ nên không có cơ sở chấp nhận. Bản án sơ thẩm được giữ nguyên.

 Vì các lẽ trên,

Căn cứ vào khoản 1 Điều 275 của Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn BĐ Lâm Thị Tố Nhàn, BĐ Nguyễn Văn  Hữu và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Áp dụng Điều 29, 131, 202 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 715, 721, 355 của Bộ luật dân sự; Điều 52, 54 của Luật các Tổ chức tín dụng; Pháp lệnh án phí lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của  NĐ Ngân hàng Thương mại cổ phần Hải Âu Buộc ông BĐ Nguyễn Văn Hữu và bà BĐ Lâm Thị Tố Nhàn có trách nhiệm trả cho NĐ Ngân hàng Thương mại cổ phần Hải Âu - Phòng giao dịch ST t ng số tiền 86.724.533 đồng (trong đó vốn 59.000.000 đồng, lãi 27.724.533 đồng, tiền lãi tính đến 08/4/2011).

Ghi nhận sự tự nguyện của NĐ Ngân hàng về thời hạn trả như sau: Từ 09/4/2011 đến ngày 31/12/2011 trả vốn 40.000.000 đồng, từ 01/1/2012 đến 31/12/2012 trả dứt 46.724.533 đồng và tiền lãi phát sinh trên nợ gốc còn lại.

Kể từ ngày 09/4/2011 ông BĐ Hữu, bà BĐ Nhàn còn phải trả lãi theo mức lãi suất   nợ quá hạn thỏa thuận trong hợp đồng trên số vốn gốc còn lại cho đến khi trả xong vốn gốc.

Trong trường hợp ông BĐ Hữu, bà BĐ Nhàn không trả được nợ trên thì NĐ Ngân Ngân hàng Thương mại cổ phần Hải Âu - Phòng giao dịch ST có quyền yêu cầu Thi hành án dân sự tiến hành phát mãi tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất 273m2 tại thửa 830, tờ bản đồ số 3, tại ấp Hà Bô, xã  TV, huyện MX, tỉnh ST do ủy ban nhân dân huyện  MX cấp cho bà  BĐ Lâm Thị Tố Nhàn, theo hợp đồng thế chấp ngày 27/3/2008 để thu hồi nợ.

2/ về án phí: Ông BĐ  Nguyễn Văn Hữu và bà BĐ Lâm Thị Tố Nhàn phải chịu

4.336.226 đồng tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm, bà BĐ Lâm Thị Tố Nhàn phải chịu 200.000 đồng án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm. Chuyển 200.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm do bà BĐ Nhàn nộp sang thi hành án phí theo biên lai thu số 001431 ngày 25/5/2011 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh ST.

Hoàn lại cho  NĐ Ngân hàng Thương mại cổ phần Hải Âu 1.907.076 đồng tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai thu số 000552 ngày 19/11/2010 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh ST.

                 3/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có  hiệu lực pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

NOTE:

Các thông tin về tên và địa chỉ của một số cá nhân, tổ chức được đề cập và/hoặc xuất hiện trong bản án này đã được thay đổi. Tài liệu này chỉ được sử dụng vào mục đích học tập và nghiên cứu, nghiêm cấm sử dụng vào mục đích nào khác nhằm xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Chúng tôi không chịu trách nhiệm đối với bất kỳ khiếu nại, thiệt hại, rủi ro, tổn thất hay nghĩa vụ phát sinh trực tiếp, gián tiếp hoặc phái sinh do việc sử dụng nội dung bản án này cho bất kỳ mục đích nào.

 

Chia sẻ:

Bài viêt cùng danh mục: